Nguyên nhân huyết khối tĩnh mạch sâu được biết đến chủ yếu là do rối loạn đông máu, thành mạch tổn thương và tình trạng bất động. Các nguyên nhân huyết khối tĩnh mạch sâu liên quan mật thiết với chứng tắc mạch phổi. Vậy các yếu tố nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu và tắc mạch phổi là gì?
1. Nguyên nhân huyết khối tĩnh mạch sâu và mối quan hệ với tắc mạch phổi
Huyết khối tĩnh mạch sâu là tình trạng cục máu đông (huyết khối) hình thành, phát triển ở những tĩnh mạch lớn (tĩnh mạch chân, tĩnh mạch tay) và không di chuyển. Có 03 nhóm nguyên nhân huyết khối tĩnh mạch sâu chính là:
- Tình trạng bất động
- Tổn thương thành mạch
- Rối loạn đông máu
Hầu hết các nguyên nhân gây huyết khối tĩnh mạch sâu thuộc nhóm rối loạn đông máu và tình trạng bất động. Ngoài ra, các yếu tố nguy cơ huyết khối tĩnh mạch cũng được phân loại thành nhóm các yếu tố di truyền và nguyên nhân mắc phải.
Trong đó, các yếu tố di truyền bẩm sinh liên quan đến sự thiếu hụt các chất ức chế đông máu tự nhiên như protein C, protein S, antithrombin. Còn các yếu tố nguy cơ mắc phải gồm có tình trạng bất động (chấn thương, phẫu thuật, di chuyển bằng ô tô, máy bay trong thời gian dài), thai kỳ, giai đoạn hậu sản, rối loạn đông máu (lupus), một số bệnh lý ác tính (ung thư) và điều trị bằng hormon thay thế.
Nguyên nhân tắc mạch phổi liên quan mật thiết với các yếu tố nguy cơ huyết khối tĩnh mạch. Chủ yếu những huyết khối hình thành ở tĩnh mạch chân di chuyển hệ thống động mạch phổi gây tắc động mạch phổi.
Trong cơ thể, tất cả các tĩnh mạch dẫn máu đi vào những tĩnh mạch lớn hơn, rồi về tim phải và động mạch phổi. Thông thường, huyết khối di chuyển từ tĩnh mạch sang tim phải, sau đó đi vào động mạch phổi chính và các nhánh nhỏ hơn, bít lòng mạch ở đó gây tắc mạch phổi. Hoặc huyết khối có thể tiếp tục di chuyển vào nhiều vùng khác nhau của một hoặc hai phổi.
XEM THÊM: Huyết khối tĩnh mạch sâu được điều trị thế nào?
2. Yếu tố nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu và tắc mạch phổi
Nhận biết các yếu tố nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu có thể giúp sớm phát hiện và ngăn chặn tắc mạch phổi. Theo đó, các yếu tố nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu và tắc mạch phổi gồm có: rối loạn đông máu; những bất thường ở mạch máu (chứng giãn tĩnh mạch); các bệnh ung thư, tim; tình trạng bất động; sử dụng thuốc tránh thai và hormon; một số yếu tố khác (tuổi tác, béo phì, đang mang thai hoặc sau khi sinh).
2.1 Rối loạn đông máu
Yếu tố V Leiden là bệnh lý rối loạn đông máu di truyền phổ biến làm tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu. Những người bị đột biến gen quy định yếu tố V Leiden, glutamine thay thế arginine - amino acid ở vị trí 506. Tiền sử gia đình có người bị chứng máu đông giúp phát hiện b ệnh lý rối loạn đông máu di truyền.
2.2 Bất thường mạch máu
Giãn tĩnh mạch là một trong những bất thường ở mạch máu làm tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch và tắc mạch phổi mặc dù còn nhiều tranh cãi. Ở những bệnh nhân giãn tĩnh mạch lớn tuổi, nguy cơ này sẽ cao hơn so với bệnh nhân trẻ tuổi.
2.3 Một số bệnh ung thư và điều trị ung thư
Trên những bệnh nhân ung thư, huyết khối tĩnh mạch sâu là biến chứng thường gặp. Tiền sử mắc bệnh ung thư hoặc ung thư trong giai đoạn tiến triển là một trong những yếu tố nguy cơ huyết khối tĩnh mạch. Đặc biệt, tỉ lệ này cao hơn trên các bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa, ung thư phổi , ung thư vú và ung thư não
Nguyên nhân làm tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu trên bệnh nhân ung thư có thể là do:
- Khối u chèn ép xâm lấn thành mạch hoặc làm tắc tĩnh mạch.
- Giai đoạn ung thư tiến triển làm tăng lên một số chất ức chế đông máu như fibrinogen, yếu tố VIII.
Bên cạnh đó, các phương pháp điều trị ung thư như phẫu thuật, xạ trị, hóa trị, trong đó việc đặt đường truyền tĩnh mạch trung tâm làm gia tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch . Trong đó, điều trị bằng hóa trị là phương pháp làm tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch cao do hoạt tính antithrombin trong máu giảm. Khi ngưng hóa trị hoặc bệnh nhân điều trị dự phòng, nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sẽ giảm.
2.4 Các vấn đề về tim
- Suy tim: Bệnh suy tim mãn tính là yếu tố độc lập làm tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch , đặc biệt là những bệnh nhân suy tim phân độ NYHA III và IV.
- Nhồi máu cơ tim: Ngoài suy tim, nhồi máu cơ tim cũng liên quan với huyết khối tĩnh mạch sâu, nguy cơ này tăng cao hơn khi người bệnh có các yếu tố phối hợp khác lớn tuổi, thường xuyên trong tình trạng bất động, suy tim ứ huyết làm ứ trệ tuần hoàn.
- Đột quỵ: Bệnh nhân hồi phục sau đột quỵ cấp thường gặp biến chứng nghiêm trọng là huyết khối tĩnh mạch. Tuy nhiên, rất khó nhận biết nguy cơ huyết khối tĩnh mạch và tắc mạch phổi vì không có triệu chứng lâm sàng.
2.5 Tình trạng bất động
- Bệnh nhân điều trị, chấn thương, phẫu thuật thường xuyên trong tình trạng nằm bất động tại giường là một trong những yếu tố làm tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch . Đây là yếu tố độc lập và sự phối hợp với những yếu tố nguy cơ khác (tuổi tác) cũng làm gia tăng tình trạng huyết khối tĩnh mạch.
- Di chuyển bằng máy bay hoặc lái xe liên tục trong nhiều giờ liền (> 8 giờ) cũng được nghiên cứu và chứng minh là làm tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch.
2.6 Sử dụng thuốc tránh thai và hormon thay thế
- Các loại thuốc ngừa thai chứa hormone estrogen, progestogen được nghiên cứu và chứng minh là làm tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch .
- Phụ nữ mãn kinh sử dụng thuốc chứa hormone thay thế và chưa từng phẫu thuật cắt bỏ tử cung cũng đã được nghiên cứu và cho thấy là đối mặt với nguy cơ huyết khối tĩnh mạch.
2.7 Các yếu tố khác
- Lớn tuổi: Tuổi tác là yếu tố độc lập và làm tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch khi tuổi càng lớn. Bên cạnh đó, các bệnh lý phối hợp khác trên bệnh nhân lớn tuổi, thường xuyên ít vận động, trương lực cơ giảm, hệ tuần hoàn thoái hóa cũng làm nguy cơ này tăng lên.
- Thai kỳ và hậu sản: Nguy cơ huyết khối tĩnh mạch tăng lên ở phụ nữ đang mang thai và đặc biệt tăng cao hơn ở giai đoạn sau khi sinh 6 tuần.
- Béo phì: Mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi nhưng béo phì cũng là một trong những yếu tố nguy cơ huyết khối tĩnh mạch .
Các yếu tố nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu và thuyên tắc phối gồm có rối loạn đông máu (di truyền), giãn tĩnh mạch; các bệnh ung thư, tim; tình trạng bất động; sử dụng thuốc tránh thai và hormone; tuổi tác, béo phì, đang mang thai hoặc sau khi sinh. Khả năng hình thành huyết khối càng cao khi có nhiều yếu tố nguy cơ. Huyết khối tĩnh mạch sâu có thể được phát hiện bằng siêu âm màu Doppler và điều trị sớm bệnh có thể giúp làm giảm các triệu chứng và phòng ngừa tắc mạch phổi. Vì thế, bệnh nhân nên thực hiện thăm khám sức khỏe định kỳ để sớm phát hiện tình trạng bệnh lý, can thiệp khi cần thiết để bảo đảm sức khỏe sau này.
Toàn bộ quy trình thăm khám, theo dõi, hồi phục điều trị bệnh luôn được tích hợp cùng nhiều chuyên khoa để đem lại cơ hội phục hồi nhanh chóng, tránh tình trạng bệnh tái phát.