Hội chứng chuyển hóa chỉ một nhóm những yếu tố nguy cơ tim mạch mà nguyên nhân sâu xa liên quan đến sự đề kháng insulin. Hội chứng này bao gồm béo phì, tăng huyết áp, tăng đường huyết và nồng độ triglycerides máu tăng.
1. Hội chứng chuyển hóa là gì?
Trong cơ thể con người luôn luôn có những quá trình “chuyển hóa” của các chất liên quan đến mọi hoạt động và sức khỏe. Khi bị rối loạn ở một mức độ nhất định nào đó thì cơ thể có thể tự cân bằng và điều chỉnh. Khi không thể tự điều chỉnh được thì cơ thể sẽ bị các rối loạn chức năng âm thầm, có khi kéo dài hàng nhiều năm, với rất ít các triệu chứng nên rất dễ bị bỏ qua. Muộn hơn có thể sẽ dẫn đến những rối loạn cùng xảy ra trong một hội chứng có tên gọi là hội chứng chuyển hóa với những nguy cơ và thách thức thật sự.
Hội chứng chuyển hóa được định nghĩa là một nhóm các chứng bệnh - cao huyết áp, tăng đường - máu, dư thừa mỡ trung tâm hay bất thường về cholesterol - xảy ra đồng thời, làm tăng nguy cơ các bệnh tim-mạch và các vấn đề khác về sức khỏe như đột quỵ, đái tháo đường...
Các thành tố chính của hội chứng chuyển hóa là rối loạn lipid máu với tăng triglycerides và giảm lipoprotein tỷ trọng cao (HDL-C), tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa glucose. Béo bụng (béo trung tâm) và hoặc kháng insulin được cho là các biểu hiện chính của hội chứng này. Gần đây, một số bất thường khác như viêm mãn tính, tình trạng tiền đông, bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và ngưng thở khi ngủ đã được đưa thêm vào hội chứng chuyển hóa, làm cho định nghĩa của nó ngày càng phức tạp hơn.
Bên cạnh nhiều thành tố và các tác động lâm sàng của hội chứng chuyển hóa đã được ghi nhận, vẫn chưa có được sự đồng thuận về cơ chế gây bệnh cũng như tiêu chuẩn chẩn đoán chính xác. Khi chỉ có đơn độc một trong các chứng bệnh nêu trên thì không có nghĩa là người bệnh bị hội chứng chuyển hóa. Tuy vậy, bất kỳ một chứng nào trong số đó cũng đều có thể làm tăng nguy cơ, và khi có nhiều hơn các chứng bệnh phối hợp thì nguy cơ mắc bệnh càng lớn hơn.
2. Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ gây bệnh
2.1. Nguyên nhân
Hội chứng chuyển hóa có liên quan đến sự trao đổi chất của cơ thể, tình trạng này được gọi là kháng insulin . Insulin là một hormon của tuyến tụy giúp kiểm soát lượng đường trong máu .
Thông thường, thức ăn được tiêu hóa thành đường (glucose). Máu mang glucose đến các mô của cơ thể, ở đó các tế bào sử dụng nó làm nguồn năng lượng. Glucose vào được trong các tế bào với sự giúp đỡ của insulin.
Trong những người có đề kháng insulin, các tế bào bình thường không đáp ứng với insulin, và glucose không thể vào các tế bào một cách dễ dàng. Cơ thể phản ứng bằng cách sản xuất insulin nhiều hơn (thường là loại kém phẩm chất) để giúp glucose đi vào tế bào. Kết quả là nồng độ insulin. Điều này cuối cùng có thể dẫn đến bệnh đái tháo đường khi cơ thể không thể tạo ra đủ insulin để kiểm soát đường trong máu về mức bình thường.
Thậm chí nếu mức glucose trong máu chưa đủ cao để được xem xét bệnh tiểu đường, thì mức glucose máu tăng cao vẫn có thể có hại. Trong thực tế, một số bác sĩ gọi tình trạng này là "tiền đái tháo đường." Nồng độ insulin máu tăng lên sẽ làm tăng mức độ chất béo trung tính và chất béo trong máu khác. Tất cả các yếu tố đó ảnh hưởng đến thận và dẫn đến huyết áp cao hơn. Những tác hại kết hợp của kháng insulin gây nguy cơ bệnh tim, đột quỵ, tiểu đường và các bệnh khác.
- Chuyển hóa lipid : triglycerides huyết tương thường tăng trong béo phì, tăng VLDL. Sự gia tăng lipoprotein có liên quan đến rối loạn chuyển hoá glucid nói trên làm cho gan sản xuất nhiều VLDL hơn. Cholesterol máu ít khi bị ảnh hưởng trực tiếp bởi béo phì; nhưng nếu có tăng cholesterol trước đó thì dễ làm tăng LDL. HDL thường giảm khi có triglycerid tăng.
- Chuyển hóa axit uric : axit uric máu thường tăng, có thể có liên quan đến tăng triglycerid máu. Cần chú ý đến sự tăng axit uric đột ngột khi điều trị nhằm giảm cân, có thể gây cơn gút cấp tính (do thoái giáng protid).
2.2. Yếu tố nguy cơ mắc hội chứng chuyển hóa
- Tuổi: Nguy cơ mắc hội chứng chuyển hóa tăng lên theo tuổi tác, tỷ lệ mắc bệnh < 10% ở lứa tuổi 20, và tăng lên đến 40% ở độ tuổi 60. Tuy nhiên, các dấu hiệu báo trước hội chứng chuyển hóa có thể xuất hiện ở tuổi niên thiếu.
- Chủng tộc: Tây ban nha, Bồ đào nha và các nước nói tiếng Tây ban nha, người châu Á dường như có nguy cơ mắc hội chứng chuyển hóa hơn các chủng tộc khác.
- Béo phì: Chỉ số khối cơ thể (BMI) – là thước đo của cơ thể dựa trên chiều cao và cân nặng. BMI > 23, tình trạng béo bụng với dáng người quả táo (không phải dạng quả lê) làm tăng nguy cơ mắc hội chứng chuyển hóa.
- Tiền sử tiểu đường: Nguy cơ mắc hội chứng chuyển hóa cao hơn ở người có tiền sử gia đình mắc tiểu đường type 2 hoặc bản thân có tiền sử bị tiểu đường khi mang thai.
Các tình trạng bệnh lý khác làm tăng nguy cơ mắc hội chứng chuyển hóa . Tăng huyết áp, hội chứng buồng trứng đa nang ảnh hưởng đến hệ thống sinh sản và hormone sinh dục nữ cũng làm tăng nguy cơ bị hội chứng chuyển hóa
3. Tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng chuyển hóa
Hiện có nhiều tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng chuyển hóa theo các tiêu chí của WHO, NCEP-ATP III (Chương trình quốc gia giáo dục về Cholesterol), EGIR ( European Group for the Study of Insulin Resistance), dưới đây xin giới thiệu cụ thể một số tiêu chí sau:
Theo NCEP-ATP III ( Chương trình quốc gia giáo dục về Cholesterol). Có 3 trong 5 tiêu chí dưới đây:
- Béo bụng: đối với nam vòng eo> 102 cm, hay nữ >88 cm
- Tăng triglyceride máu ≥ 150 mg/dL ( hay 1.7 mmol/L)
- HDL-c <40mg/dl (1.0mmol/L) ở nam hay <50mg/dl (1.3mmol/L) ở nữ
- HA (huyết áp) ≥130/ 85 mmHg.
- Đường huyết lúc đói ≥ 110 mg/dL (6.1 mmol/L)( năm 2003, thay đổi tiêu chí này thành 100 mg/dL hay 5.55 mmol/L) .
Theo tiêu chuẩn chẩn đoán hội chứng chuyển hóa ở người Châu Á
- Vòng eo>= 90 cm ở nam giới hoặc >= 80 cm ở nữ giới.
- Đường huyết lúc đói >= 110 mg/dL hoặc đái tháo đường( ngay cả khi đường huyết< 110 mg/dL)
- HDL_C < 1.0 mmol/L (40mg/dl) ở nam giới hay <1.3mmol/L( 50 mg/dL) ở nữ giới
- Triglyceride >= 150 mg/dL.
- HA ≥ 130/85 mm Hg hoặc đang điều trị tăng huyết áp.
4. Các bệnh lý liên quan đến hội chứng chuyển hóa
Sự cần thiết phải xác định chính xác hội chứng chuyển hóa xuất phát từ nhu cầu cần phát hiện chính xác các cá nhân có nguy cơ cao đối với bệnh tim mạch và đái tháo đường tuýp 2.
Tất cả các thành phần của hội chứng chuyển hóa dù ở các định nghĩa khác nhau đều có liên quan đến nguy cơ tim mạch và đái tháo đường tuýp 2. Trong đó, ba thành phần của rối loạn lipid máu gây xơ vữa (tăng LDL, giảm HDL và tăng triglyceride ) có liên quan độc lập với nguy cơ tim mạch, trong khi kháng insulin làm tăng đáng kể nguy cơ mắc đái tháo đường tuýp 2, mặc dù có khoảng 25% bệnh nhân kháng insulin có dung nạp glucose bình thường. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng béo phì trung tâm làm tăng nguy cơ bệnh tim mạch và đái tháo đường tuýp 2.
Một số nghiên cứu dịch tễ học đã xác nhận người mắc hội chứng chuyển hóa có gia tăng nguy cơ của bệnh tim mạch. Nguy cơ mắc và tử vong do bệnh tim mạch cao gấp 1,5-3 lần ở người có hội chứng chuyển hóa so với nhóm người bình thường. Một phân tích gộp cho thấy hội chứng chuyển hóa làm tăng gấp đôi các biến cố tim mạch và tăng 1,5 lần tử vong do mọi nguyên nhân. Nghiên cứu INTERHEART, một điều tra quốc tế quy mô lớn với đa sắc tộc, đã chứng minh rằng dù sử dụng định nghĩa của WHO hay IDF, hội chứng chuyển hóa có liên quan với sự gia tăng > 2,5 lần nguy cơ nhồi máu cơ tim cấp.
Việc đánh giá liệu các nguy cơ của hội chứng chuyển hóa lên nhồi máu cơ tim có lớn hơn tổng nguy cơ của các yếu tố cấu thành hội chứng này hay không cũng đã được nghiên cứu. Kết quả cho thấy nguy cơ bệnh tim mạch liên quan đến hội chứng chuyển hóa nhiều hơn so với tổng nguy cơ từ các yếu tố cấu thành hội chứng ở người có hoặc không có đái tháo đường tuýp 2. Tuy nhiên, nên đánh giá và điều trị tất cả các yếu tố nguy cơ tim mạch mà không xem xét liệu một bệnh nhân đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán của hội chứng chuyển hóa hay không.
Khả năng dự báo của hội chứng chuyển hóa về nguy cơ đái tháo đường tuýp 2 cũng đã được kiểm chứng bởi nhiều nghiên cứu. Hội chứng chuyển hóa không chỉ làm tăng gấp 5 lần nguy cơ đái tháo đường mà còn có khả năng dự báo mắc đái tháo đường tuýp 2..
5. Phòng bệnh
Hội chứng chuyển hóa ẩn chứa nhiều mối nguy hiểm cho sức khỏe, làm tăng biến cố tim mạch. Vì vậy, để phòng ngừa các yếu tố nguy cơ này, cần phải khám sức khỏe định kỳ 6 tháng một lần.
Đi đôi với đó cần có một chế độ ăn uống, tập luyện khoa học, đặc biệt nếu đang có bệnh lý đi kèm cần được thăm khám và điều trị tích cực.
+ Chế độ ăn uống hợp lý, khoa học: Cần ăn đủ thực phẩm gồm 4 nhóm chất: đạm (thịt, cá, trứng, sữa...); bột đường (cơm, cháo, phở, bún, bánh mì, bánh ngọt...); béo: chất béo trong cá tôm cua, hải sản, dầu thực vật); vitamin và khoáng chất: rau, củ, quả các loại. Tránh hoặc hạn chế uống rượu bia.
- Điều trị tích cực các bệnh lý: tiểu đường, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu.
- Tập thể dục đều đặn từ 30-45 phút mỗi ngày với cường độ nhẹ nhàng vừa sức. Đi bộ hoặc chạy bộ là một trong những lựa chọn phù hợp.
- Bỏ hút thuốc: Hút thuốc làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, đột quỵ, ung thư và bệnh phổi. Bỏ hút thuốc lá sẽ có nhiều lợi ích sức khỏe, đặc biệt là nếu có hội chứng rối loạn chuyển hóa hay còn gọi là hội chứng chuyển hóa.
- Kiểm soát cân nặng: tăng hoạt động thể chất và cải thiện thói quen ăn uống sẽ giúp giảm mỡ thừa cơ thể và giảm trọng lượng. Cũng có thể sử dụng các loại máy massage để giúp giảm mỡ bụng.
Để phòng tránh các rối loạn chuyển hóa cách đơn giản nhất và hiệu quả nhất là tầm soát sớm theo định kỳ để biết tình trạng sức khỏe và chủ động điều chỉnh.Theo WHO khuyến cáo: tầm soát định kỳ những bệnh lý thường gặp, tầm soát những nhóm bệnh nhất định trên những đối tượng nhất định (nhóm nguy cơ). Bộ Y tế cũng đã quy định rõ việc các cơ sở y tế phải khám sức khỏe và xét nghiệm định kỳ ít nhất mỗi năm một lần cho người lao động. Phát hiện sớm các rối loạn là cách duy nhất để ngăn ngừa nguy cơ bệnh lý diễn ra.
Bài viết tham khảo nguồn: Hội Tim mạch học Việt Nam