Suy tim là gì
Tim được ví như 1 cái bơm lớn , vừa hút vừa đẩy máu vào hệ thống ống dẫn kín là mạch . Khi tim không hút được đủ máu về tim và/hoặc không đẩy được đủ máu để đảm bảo hoạt động bình thường của cơ thể thì gọi là suy tim .
Theo ESC 2016 : "suy tim là một hội chứng lâm sàng đặc trưng bởi các triệu chứng điển hình (khó thở , phù chân và mệt mỏi) mà có thể đi kèm có các dấu hiệu (tĩnh mạch mạch cổ nổi , ran phổi và phù ngoại vi) gây ra bởi bất thường cấu trúc và/hoặc chức năng tim mạch , dẫn đến cung lượng tim giảm và/hoặc áp lực trong tim cao lúc nghỉ hoặc lúc gắng sức/stress" .
Trong suy tim thường là cung lượng tim bị giảm xuống . Khi cung lượng tim bị giảm xuống thì cơ thể sẽ bức xúc lại bằng các cơ chế bù trừ của tim và của các hệ thống ngoài tim , để cố gắng duy trì cung lượng này ổn định . Nhưng nếu các cơ chế bù trừ này bị vượt quá thì sẽ xảy ra suy tim với phổ biến hậu quả nghiêm trọng .
Các yếu tố ảnh hưởng tới cung lượng tim
Cung lượng tim phụ thuộc vào bốn yếu tố , đó là : tiền gánh , hậu gánh , sức co bóp của cơ tim và tần số tim .
Tiền gánh (tiền tải)
Tiền gánh được đánh giá bằng thể tích hoặc áp lực cuối thì tâm thất trương .
Tiền gánh là yếu tố quyết định mức độ kéo dài của sợi cơ tim trong thời kì tâm trương , trước lúc tâm thất co bóp . Tiền gánh phụ thuộc vào : Áp lực đổ đầy tâm thất , tức là lượng máu từ tĩnh mạch trở về tâm thất và độ giãn của tâm thất .
Hậu gánh (hậu tải)
Hậu gánh là sức cản của các động mạch đối có sự co bóp của tâm thất . Sức cản càng cao thì sự co bóp của tâm thất càng lớn . Nếu sức cản rẻ quá có thể sẽ làm giảm sự co bóp của tâm thất , nhưng ví như sức cản tăng cao sẽ làm nâng cao công của tim cũng như nâng cao mức tiêu thụ ôxy của cơ tim , từ đó sẽ làm giảm sức co bóp của cơ tim và làm giảm lưu lượng tim .
Sức co bóp của cơ tim
Khi áp lực hoặc thể tích cuối thì tâm trương trong tâm thất tăng lên , thì sức bóp của cơ tim sẽ tự động tăng lên theo định luật Starling và do đó thể tích máu mỗi một nhát bóp của tim sẽ tăng lên ra khỏi tim . Nhưng đến một mức nào đó , thì dù áp lực hoặc thể tích cuối thì tâm thất trương có tiếp diễn tăng lên đi nữa , thì thể tích nhát bóp sẽ không nâng cao tương ứng mà thậm chí còn bị giảm đi . Tim càng suy thì thể tích nhát bóp càng giảm .
Tần số tim
Trong bệnh suy tim , lúc đầu nhịp tim tăng lên sẽ có tác dụng bù trừ tốt cho tình trạng giảm thể tích nhát bóp và qua đó sẽ duy trì được cung lượng tim ; nhưng ví như nhịp tim nâng cao quá phổ thông thì nhu cầu ôxy của cơ tim sẽ tăng lên , đồng thời công của cơ tim cũng phải nâng cao cao và hậu quả là tim sẽ càng bị suy yếu đi một cách nhanh chóng .
Các cơ chế bù trừ trong suy tim
Suy tim là một bệnh mãn tính , tiến triển theo thời kì và sẽ nặng dần lên giả dụ không được điều trị đúng cách . Nếu bạn đang bị hẹp , hở van tim , cao huyết áp , thiểu năng mạch vành… hãy dành thời gian khám bác sĩ chuyên khoa tim mạch để được hướng dẫn liệu pháp phòng và trị suy tim phù hợp .
Cơ chế bù trừ tại tim
Dãn buồng tim
Tâm thất giãn chính là cơ chế thích ứng đầu tiên để tránh quá nâng cao áp lực cuối thì tâm thất trương . Khi tâm thất giãn , sẽ kéo dài các sợi cơ tim và theo luật Starling , sẽ làm tăng sức co bóp của cơ tim nếu như dự trữ co cơ vẫn còn .
Phì đại tâm thất
Tim cũng có thể thích ứng bằng cách tăng bề dày các thành tim , nhất là trong trường hợp tăng áp lực ở các buồng tim . Việc nâng cao bề dày của thành tim cốt yếu là để đối phó có tình trạng nâng cao hậu gánh .
Tăng hoạt hệ thần kinh giao cảm
Khi có suy tim , hệ thần kinh giao cảm được kích thích , lượng Catecholamin từ đầu tận cùng của các sợi giao cảm hậu hạch được tiết ra rộng rãi làm tăng sức co bóp của cơ tim và nâng cao tần số tim .
Với cơ chế bù trừ tại tim này , cung lượng tim sẽ được điều chỉnh lại gần có mức bình thường .
Cơ chế bù trừ ngoài tim
Để đối phó mang việc giảm cung lượng tim trong suy tim , hệ thống mạch máu ở ngoại vi được co lại để tăng cường thể tích tuần hoàn hữu ích . Có ba hệ thống co mạch ngoại vi được huy động :
- Hệ thống tâm thần giao cảm : Cường giao cảm sẽ làm co mạch ngoại vi ở da , thận và về sau ở khu vực các tạng trong ổ bụng và ở các cơ .
- Hệ Renin-Angiotensin-Aldosteron (RAA) : Sự hoạt hóa hệ RAA thúc đẩy việc giữ muối và nước , gây co hệ mạch ngoại vi , phì đại tế bào cơ , sự chết của tế bào cơ và xơ hóa cơ tim .
- Hệ Arginin-Vasopressin : Suy tim ở giai đoạn muộn hơn , vùng dưới đồi - tuyến yên được kích thích để tiết ra Arginin - Vasopressin , làm nâng cao thêm tác dụng co mạch ngoại vi của Angiotensin II , đồng thời làm nâng cao tái thu nhận nước ở ống thận .
Cả ba hệ thống này đều nhằm mục đích duy trì cung lượng tim , nhưng lâu ngày chúng lại làm nâng cao tiền gánh và hậu gánh , nâng cao ứ nước và Natri , tăng mức tiêu thụ ôxy của cơ tim , tạo nên một "vòng luẩn quẩn" bệnh lý và làm cho suy tim ngày 1 nặng hơn .
Suy tim là hậu quả cuối cùng của các bệnh tim mạch và một số bệnh lý khác . Hiểu được về cơ chế gây ra suy tim , chúng ta sẽ có hướng điều trị đúng , tích cực , ngăn đề phòng sự tiến tiến của bệnh , cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân suy tim .