1. Rối loạn nhịp tim nhanh trên thất là gì?
Nhịp tim nhanh trên thất (supraventricular tachycardia - SVT) là một loại rối loạn nhịp tim thường gặp, nó gây nên tình trạng nhịp tim nhanh bất thường.
Khi xuất hiện cơn nhịp tim nhanh trên thất , nhịp tim không còn đập theo sự kiểm soát của nút xoang - trung tâm điều khiển nhịp tim tự nhiên của cơ thể. Thay vào đó, một nhịp khác với tần số nhanh hơn xuất phát từ một vị trí khác sẽ thay thế cho nhịp xoang. Nơi xuất phát xung nhịp mới này nằm ở một vị trí nào đó phía trên tâm thất, rồi từ đó lan truyền xuống tâm thất. Có ba loại rối loạn nhịp tim nhanh trên thất chính như sau:
- Nhịp nhanh vào lại nút nhĩ thất: Đây là loại rối loạn nhịp nhanh trên thất phổ biến nhất. Nó gặp nhiều nhất ở những người ở độ tuổi 20 và 30, và nữ nhiều hơn nam. Nhịp nhanh vào lại nút nhĩ thất xảy ra khi có một vòng vào lại khu trú trong phạm vi nút nhĩ thất, và luồng xung điện bất thường sẽ lan truyền theo vòng vào lại này.
- Nhịp nhanh nhĩ : Khởi phát từ một khu vực mô nhỏ nằm ở tâm nhĩ, là vị trí khởi phát xung điện bất thường, khiến tim đập theo xung này (nhanh hơn nhiều so với nhịp tim bình thường).
- Hội chứng Wolff - Parkinson - White (WPW syndrome).
2. Các triệu chứng của rối loạn nhịp tim nhanh trên thất là gì?
Các triệu chứng sẽ biểu hiện ra ngoài cho đến khi cơn rối loạn nhịp tim nhanh trên thất kết thúc. Thời gian mà cơn rối loạn nhịp tim nhanh trên thất xảy ra có thể tính bằng giây, bằng phút, bằng giờ, hoặc dài hơn nữa (nhưng hiếm). Các triệu chứng có thể xảy ra bao gồm:
- Nhịp tim có thể lên tới 140 - 200 nhịp/phút, hoặc thậm chí nhanh hơn nữa (nhịp tim bình thường chỉ đạt 60 - 100 nhịp/phút).
- Cảm giác đánh trống ngực .
- Chóng mặt, hoặc cảm giác choáng váng, quay cuồng.
- Cảm thấy khó thở.
- Đôi khi có cảm giác khó chịu nhẹ ở ngực.
- Nếu từng bị cơn đau thắt ngực thì rối loạn nhịp tim nhanh trên thất có thể gây khởi phát cơn đau thắt ngực.
Một cơn rối loạn nhịp tim nhanh trên thất có thể xuất hiện đột ngột, có hoặc không có yếu tố kích thích khởi phát. Các cơn này có thể kéo dài từ vài giây, vài phút, thậm chí kéo dài tới vài giờ (nhưng hiếm khi kéo dài lâu hơn nữa), sau đó đột ngột tự biến mất hoặc sau khi được can thiệp (bằng thuốc hoặc không bằng thuốc).
3. Các yếu tố nguy cơ của rối loạn nhịp tim nhanh trên thất là gì?
Các yếu tố nguy cơ gây kích thích khởi phát cơn rối loạn nhịp tim nhanh trên thất bao gồm:
- Một số thuốc điều trị nhất định, ví dụ như một số thuốc xịt điều trị hen, một số thuốc trị cảm lạnh.
- Caffeine.
- Rượu.
- Căng thẳng hoặc cảm xúc tiêu cực.
- Hút thuốc lá .
Tránh các yếu tố nguy cơ gây khởi phát cơn rối loạn nhịp tim nhanh trên thất thường sẽ làm giảm được tần suất xuất hiện cơn rối loạn nhịp tim nhanh trên thất.
4. Phương pháp điều trị rối loạn nhịp tim nhanh trên thất là gì?
- Nhiều cơn rối loạn nhịp tim nhanh trên thất sẽ sớm tự kết thúc mà không cần bất kì một biện pháp can thiệp nào.
- Đôi khi có thể chấm dứt một cơn rối loạn nhịp tim nhanh trên thất bằng nhiều cách đơn giản, như uống một cốc nước lạnh, nín thở hoặc ngâm mặt vào trong nước lạnh.
- Nếu một cơn rối loạn nhịp tim nhanh trên thất kéo dài hoặc nghiêm trọng, cần nhập viện càng sớm càng tốt để can thiệp chấm dứt nó.
- Các thuốc sử dụng đường tĩnh mạch có thể dùng để chấm dứt cơn rối loạn nhịp tim nhanh trên thất, và Adenosine là thuốc hay được lựa chọn. Nếu có chống chỉ định với Adenosine hoặc dùng Adenosine không có hiệu quả, thì Verapamil sẽ là lựa chọn thay thế.
- Sốc điện đôi khi được sử dụng để chấm dứt một cơn rối loạn nhịp tim nhanh trên thất có ảnh hưởng huyết động (gây tụt huyết áp...).
Các biện pháp phòng ngừa bao gồm:
- Nếu các cơn rối loạn nhịp tim nhanh trên thất xuất hiện không thường xuyên, thời gian xuất hiện cơn ngắn, có ít triệu chứng biểu hiện, thì có thể không cần điều trị, chỉ cần hạn chế yếu tố có nguy cơ gây kích thích khởi phát cơn.
- Sử dụng thuốc điều trị: Các thuốc như digoxin, verapamil, thuốc chẹn beta,... là những thuốc có thể lựa chọn. Nếu một thuốc không có tác dụng hoặc gây ra tác dụng không mong muốn, bệnh nhân có thể sử dụng thuốc khác.
- Cắt đốt qua ống thông (catheter destruction, catheter ablation): một ống thông sẽ đi từ tĩnh mạch đùi luồn vào buồng tim, phần đầu của ống thông có khả năng phá hủy một phần mô tim nhỏ là nơi khởi phát hoặc kích thích khởi phát xung điện bất thường.
- Để điều trị triệu chứng và phòng ngừa bệnh tim mạch hiệu quả, trước tiên phải xác định rõ nguyên nhân gây bệnh. Đồng thời, để tâm lý bệnh nhân luôn thoải mái, bệnh nhân có thể tập thiền, yoga để cân bằng cơ thể và kiểm soát cảm xúc.