1. Tắc động mạch vùng dưới gối
Tắc động mạch dưới gối xảy ra do xơ vữa động mạch hoặc viêm nội mạc động mạch gây ra, làm giảm dòng máu nuôi phần chi phía dưới vị trí tổn thương. Bệnh dễ mắc ở những người hút thuốc lá , tiểu đường , tăng huyết áp , rối loạn lipid máu , ít vận động, béo phì ...Nếu không được điều trị kịp thời sẽ gây ra tình trạng thiếu máu mô nặng, dẫn tới hoại tử chi.
2. Can thiệp nội mạch điều trị tắc động mạch vùng dưới gối
Với bệnh lý tắc động mạch vùng dưới gối , phương pháp điều trị tối ưu, ít đau đớn cho bệnh nhân là tái lưu thông động mạch bị tắc bằng phương pháp nong đặt stent qua da bằng ống thông. Dụng cụ can thiệp là các dây dẫn, ống thông gắn bóng và stent, được đưa đến vị trí tổn thương qua một lỗ chọc kim ở động mạch đùi. Ống thông gắn bóng được đưa vào vị trí hẹp/tắc của mạch để mở rộng lòng mạch. Tiếp theo, stent kim loại gắn trên một ống thông khác được đưa vào để mở rộng lòng mạch và giữ cho lòng mạch không bị hẹp lại. Khi lòng mạch được mở thông, dòng máu được phục hồi lưu thông, các triệu chứng đau, mỏi chân khi đi bộ và đau khi nghỉ do thiếu máu sẽ giảm nhanh chóng.
Các bước cơ bản trong quy trình can thiệp tái thông động mạch vùng dưới gối gồm:
- Đánh giá tổn thương trước can thiệp: Siêu âm Doppler , chụp cắt lớp điện toán đa lát cắt ( MSCT ) để đánh giá tổn thương
- Mở đường vào động mạch: được thực hiện dưới hướng dẫn của siêu âm
- Chụp mạch đánh giá thương tổn
- Tiếp cận và đi qua vị trí hẹp tắc
- Xác định được tuần hoàn phía hạ lưu (runoff): Nong bằng bóng nhỏ
- Nong tạo hình lòng mạch
- Chụp mạch kiểm tra
- Siêu âm doppler đánh giá sau can thiệp 48-72 giờ
- Chống tái hẹp: Bệnh nhân được cho dùng thuốc chống đông và kháng kết tập tiểu cầu để chống tái hẹp sau can thiệp
- Tái khám định kỳ
- Thời gian tái khám: 1 - 3 - 6 - 12 tháng sau can thiệp
- Các tiêu chí cần đánh giá: triệu chứng lâm sàng, chỉ số ABI, các yếu tố nguy cơ (mỡ máu, đường máu,...), siêu âm doppler mạch máu.
- Chụp CT scanner / MRI mạch máu nếu có dấu hiệu tái hẹp.
Tắc động mạch dưới gối không chỉ gây ra sự đau đớn, khó khăn khi di chuyển cho người bệnh mà bệnh ở giai đoạn nặng có thể gây loét và hoại tử chi. Vì thế việc chẩn đoán điều trị bệnh ở giai đoạn sớm là việc làm cần thiết, hạn chế tối đa biến chứng nguy hiểm có thể xảy ra.