1. Cấu tạo stent mạch vành
1.1 Stent mạch vành là gì?
Stent là một khung đỡ được làm bằng kim loại đặt trong lòng động mạch vành, chúng có mục đích mở rộng lòng động mạch vành bị hẹp và giữ nó không bị hẹp lại. Mỗi loại stent khác nhau có cấu trúc khác nhau tùy theo hãng sản xuất.
Hình 1 Đặt stent mạch vành được áp dụng khi bị thiếu máu cơ tim nặng hoặc có nguy cơ nhồi máu do mảng xơ vữa. (ảnh minh hoạ)
XEM THÊM:
1.2 Cấu tạo stent mạch vành
Về cấu tạo, stent sử dụng cho các động mạch vành có cơ cấu như một lưới kim loại. Theo đó, stent được đặt bên ngoài quả bóng nong gắn trên đầu một dây dẫn đặc biệt. Khi quả bóng nong được bơm căng sẽ làm mở stent và ép vào thành động mạch vành. Khi dây dẫn mang quả bóng được rút ra, stent sẽ nằm lại trong lòng mạch, có tác dụng như một giá đỡ làm cho lòng mạch không co hẹp lại. Có các loại stent gồm: Stent kim loại trần, stent phủ thuốc và stent tự tiêu.
- Stent kim loại trần: Cấu trúc bằng thép không gỉ hoặc crom - coban không có lớp thuốc phủ. Mục đích sử dụng là mở thông động mạch, không thể tháo ra sau khi đã đưa vào trong cơ thể. Loại stent này có tỷ lệ tái hẹp động mạch vành cao sau khi đặt, nên hiện nay ít còn sử dụng.
- Stent phủ thuốc : Cấu trúc bằng thép không gỉ hoặc crom - coban, được phủ một lớp thuốc bên ngoài, thuốc dần được giải phóng trong lòng mạch để ngăn ngừa sự phát triển quá mức của mô sẹo gây tái hẹp động mạch vành; đây là loại stent sử dụng phổ biến nhất hiện nay, với nhiều ưu điểm vượt trội hơn stent trần đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu.
- Stent tự tiêu : Làm từ chất liệu tự tiêu như magie hoặc polymer phi kim loại. Stent được tráng một lớp thuốc để ngăn ngừa nguy cơ tái hẹp động mạch. Sau khoảng 2 năm, stent tự tiêu sẽ hòa tan trong máu nhưng vẫn đảm bảo động mạch được mở rộng, ngăn ngừa tái hẹp. Tuy nhiên, stent tự tiêu vẫn đang tiếp tục quá trình nghiên cứu, hoàn thiện do nhiều báo cáo cho thấy có tỷ lệ biến cố sau can thiệp stent tự tiêu, do đó loại stent này chưa được sử dụng rộng rãi và còn hạn chế chỉ định trên một số tổn thương động mạch vành.
XEM THÊM: Sự phát triển của các loại stent mạch vành
2. Chức năng của stent mạch vành
Thông thường, các động mạch dẫn máu nuôi dưỡng cơ tim ( động mạch vành ) sẽ hình thành mảng xơ vữa theo thời gian do sự tích tụ của cholesterol và canxi trong lòng mạch. Những mảng xơ vữa này có thể gây hẹp, gây tắc mạch, cản trở dòng máu lưu thông tới nuôi cơ tim. Nếu không được điều trị thì tình trạng này có thể dẫn tới bệnh đau thắt ngực , nhồi máu cơ tim .
Khi đó, đặt stent mạch vành là kỹ thuật được sử dụng để can thiệp điều trị cho trường hợp trên. Bệnh nhân sẽ được đề nghị đặt stent khi mức độ hẹp động mạch vành từ 70% trở lên có kèm theo triệu chứng thiếu máu cơ tim trên lâm sàng hoặc trên các thăm dò gắng sức. Stent được đặt vào vị trí chỗ hẹp sẽ bung ra, đóng vai trò như một giá đỡ để làm thông mạch máu bị tắc nghẽn, giúp máu lưu thông ổn định.
Khi động mạch vành bị tắc chỉ được điều trị với nong bằng bóng đơn thuần, nguy cơ của hẹp tái phát gây triệu chứng (đau ngực tái phát) là khoảng 30%. Nếu đặt stent thì nguy cơ giảm xuống khoảng 20%, tuy nhiên nếu đặt stent phủ thuốc thì nguy cơ tái hẹp chỉ còn khoảng 5 – 10%. Theo đó, để đảm bảo an toàn, khi bác sỹ thực hiện thủ thuật sẽ giải thích cho người thân của bệnh nhân nên thực hiện đặt stent thường (không phủ thuốc) hay stent phủ thuốc. Tùy từng trường hợp bác sĩ sẽ có tư vấn cụ thể nhất.
XEM THÊM: Chỉ định của nong và đặt stent động mạch vành
Tuy nhiên, sau đặt stent, bệnh nhân có thể gặp nguy cơ biến chứng tắc nghẽn hoặc cục máu đông trong stent. Vì vậy, người bệnh cần dùng một số loại thuốc như aspirin hoặc các loại thuốc chống tiểu cầu khác trong ít nhất 12 tháng sau khi đặt stent mạch vành để ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng.