1. Đau thắt ngực ổn định có chữa được không?
Đau thắt ngực ổn định còn được gọi với tên gọi khác là bệnh cơ tim thiếu máu cục bộ mạn tính . Đây là một dạng đau ngực gặp nhiều nhất trong bệnh lý mạch vành.
Thực chất có tên gọi đau thắt ngực ổn định là vì tính chất, mức độ tương tự nhau trong mỗi lần xuất hiện và đặc biệt cơn đau thường chỉ xảy ra khi đang thực hiện các hoạt động phải dùng nhiều sức hoặc khi người bệnh căng thẳng tâm lý, nhiệt độ môi trường thay đổi đột ngột. Thông thường các cơn đau này sẽ giảm dần mức độ khi nghỉ ngơi hoặc dùng thuốc.
XEM THÊM: Làm gì khi bị bệnh tim thiếu máu cục bộ mãn tính?
Đối với đau thắt ngực ổn định , người bệnh thường có cảm giác đau hoặc khó chịu ở ngực, tim như bị ai bóp chặt hay bị một vật nặng đè lên. Cơn đau có thể sẽ lan sang các vùng lân cận trên cơ thể như cổ, vai, cánh tay, lưng và kèm theo các triệu chứng khó thở, mệt mỏi, toát mồ hôi,...
Vậy đau thắt ngực ổn định có chữa được không ? Thực tế, việc điều trị đau thắt ngực ổn định chỉ nhằm mục đích cải thiện cơn đau, nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm tỷ lệ suy tim cũng như giảm tỷ lệ tử vong cho người bệnh nhưng không thể chữa khỏi hoàn toàn.
XEM THÊM: Các biện pháp điều trị, xử trí giảm cơn đau thắt ngực
2. Các biện pháp điều trị?
Nếu không điều trị bệnh đau thắt ngực ổn định kịp thời và đúng phương pháp, người bệnh có thể bị nhồi máu cơ tim , suy tim hay đột quỵ. Đây là một số biến chứng nguy hiểm ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng người bệnh.
Có 3 phương pháp điều trị đau thắt ngực ổn định đó là: Sử dụng thuốc, can thiệp động mạch vành qua da và mổ làm cầu nối chủ vành. Tuy nhiên, khi điều trị cần phải điều chỉnh các yếu tố nguy cơ đối với người bệnh.
2.1. Điều trị bằng thuốc
Sử dụng thuốc chống ngưng kết tiểu cầu:
- Sử dụng Aspirin: Với liều dùng từ 75 - 325 mg/ngày.
- Trường hợp dị ứng hoặc dung nạp kém với Aspirin thì có thể thay thế Ticlopidine (Ticlid) viên 250mg, dùng 2 viên/ngày hoặc Clopidogrel (Plavix) viên 75mg, liều 75mg/ngày.
Điều chỉnh rối loạn lipid máu:
- Điều trị đau thắt ngực ổn định bằng cách sử dụng nhóm thuốc ức chế men HMG-CoA như: Fluvastatin (Lescol), Simvastatin (Zocor), Atorvastatin (Lipitor)...
- Điều trị đau thắt ngực ổn định bằng cách sử dụng các dẫn xuất Fibrat như Benzafibrat (Banzalip), Gemfibrozil (Lopid) hoặc sử dụng Fenofibrat (Lipanthyl).
- Nicotinic acid (Niacin) hay các loại Resins gắn acid mật như Colestipol, Cholestyramine.
Sử dụng các thuốc dẫn xuất Nitrates:
- Nitroglycerin (Glycerin trinitrate Nitrobid, Nitrostat, Nitrodur, Natispray, Nitromit...)
- Isosorbide dinitrate (Isosorbid, Lenitral, Sorbitrate) hoặc Isosorbid - 5- mononitrate (Imdur, Ismo)
- Erythrityl tetranitrate (Cardilate)
Các thuốc chẹn B giao cảm:
- Thuốc chọn lọc B1: Metoprolol với liều lượng 50 - 200 mg/ ngày; Atenolol (Tenormin) với liều lượng 25 - 200 mg/ngày; Acebutolol (Sectral) với liều lượng 200 - 600 mg hoặc Betaxolol với liều lượng 20 - 40 mg/ngày
- Thuốc không chọn lọc (chẹn cả B1 và B2): Sử dụng Propranolol (Inderal) với liều 40 - 320 mg/ ngày hoặc dùng Nadolol, Timolol, Pindolol.
- Thuốc chẹn cả B và A như: Labetalol, Carvedilol.
Các thuốc chẹn dòng calci:
- Các thuốc chẹn dòng calci như Dihydropyridines ít tác dụng lên động mạch vành.
- Benzothiazepines: Diltiazem (Tildiem) với liều lượng 30-90 mg x 3 lần/ngày. Tuy nhiên, thuốc này không dùng ở người bệnh giảm chức năng co bóp thất trái, nhịp chậm.
- Phenylalkylamine: Verapamil (Isoptine) với liều lượng 120 - 240 mg x 2 lần/ngày. Tuy nhiên không dùng thuốc này ở bệnh nhân suy tim.
Ức chế men chuyển:
- Chỉ nên dùng ở những bệnh nhân đau thắt ngực ổn định sau nhồi máu cơ tim có rối loạn chức năng thất trái hoặc người bệnh bị tăng huyết áp kèm theo.
Điều trị hormon thay thế:
- Hiện nay, thuốc thường dùng là Estrogen với liều 0,625 mg /ngày. Nên uống trong 25 ngày liên tục, nghỉ 5 ngày.
- Các thuốc chống gốc oxy tự do: Các thuốc bao gồm: Vitamin E 400 - 800 đơn vị/ngày.
2.2. Điều trị can thiệp mạch vành
Can thiệp mạch vành qua da để điều trị đau thắt ngực ổn định bao gồm nong mạch vành qua da kèm hoặc không kèm đặt stent. Phương pháp này được thực hiện thông qua đường vào ở động mạch đùi, động mạch quay hoặc động mạch cánh tay.
Với phương pháp này, sẽ sử dụng một ống thông dẫn đường đưa qua đường động mạch ngoại vi, sau đó luồn vào tới gốc động mạch chủ với mục đích tiếp cận lỗ động mạch vành.
Một ống thông có bóng ở đầu đưa qua ống thông dẫn đường tới vị trí hẹp dưới hướng dẫn của siêu âm hoặc X quang. Bơm bóng lên để làm xẹp mảng xơ vữa, làm rộng khẩu kính lòng mạch chỗ hẹp
2.3. Mổ làm cầu nối chủ - vành
Phương pháp này sẽ làm cải thiện dòng máu tới nuôi cơ tim, giúp người bệnh giảm triệu chứng đau ngực cũng như dùng ít thuốc hơn và hoạt động thể lực, sống lâu hơn.
Phẫu thuật này nhằm tạo lập một đường chảy tắt từ động mạch chủ đến phía sau vị trí tắc nhánh động mạch vành. Bác sĩ sẽ lấy một đoạn động mạch hoặc tĩnh mạch từ các phần khác của cơ thể người bệnh và nối trực tiếp những mạch máu này vào phía sau vị trí hẹp của động mạch vành bị tổn thương. Từ đó, máu có thể lưu thông tốt hơn qua những nơi bị hẹp và đến phần cơ tim nhiều hơn.
2.4. Điều trị dự phòng
- Rối loạn lipid máu : Nên điều chỉnh lipid máu bằng statins. LDL mục tiêu dưới 70 mg/dL hoặc giảm >50% LDL-C khi mục tiêu không khó đạt. Đồng thời, nên sử dụng các thuốc khác như niacin, ezetimibe, fibrates, nhóm resin nhằm làm giảm cholesterol.
- Tiểu đường: Mức HbA1c mục tiêu < 53 mmol/mol được khuyến cáo để giảm các nguy cơ mạch vành. Đối với bệnh nhân đái tháo đường kèm theo bệnh mạch vành nên điều trị thuốc SGLT-2 sớm.
- Bệnh thận mạn: Những người có bệnh thận mạn tính có nguy cơ cao thì cần kiểm soát yếu tố nguy cơ, huyết áp mục tiêu và lipid máu.
- Tăng huyết áp: Huyết áp mục tiêu cần đạt là huyết áp tâm thu <140 mmHg và tâm trương <90mmHg.
- Béo phì và thừa cân: Những người thừa cân, béo phì cần giảm cân để ngăn ngừa huyết áp cao, giảm lipid máu cũng như giảm như cơ mắc đái tháo đường type 2 và các nguy cơ tim mạch khác.
- Ức chế men chuyển: ACEI ức chế sự co thắt mạch máu thông qua việc ức chế sự hoạt động của men chuyển angiotensin I thành angiotensin II. Tuy nhiên, chống chỉ định sử dụng ACEI khi mang thai, tiền căn phù hoặc suy thận cấp khi sử dụng ACEI và người bệnh bị huyết áp thấp.
- Trầm cảm: Sertraline, citalopram, mirtazapine có hiệu quả và an toàn để điều trị trầm cảm đối với những người bệnh đau thắt ngực ổn định.
- Thuốc chống kết tập tiểu cầu: Hoạt hóa và kết dính tiểu cầu được coi là yếu tố chính trong đáp ứng tạo huyết khối khi mảng xơ vữa bong tróc, do đó thuốc chống kết tập tiểu cầu sẽ làm giảm tỷ lệ biến chứng của người bệnh đau thắt ngực ổn định.
3. Chỉ định của các biện pháp?
Sử dụng thuốc:
- Đối với thuốc điều chỉnh rối loạn lipid máu: Chỉ định ở người bệnh có rối loạn lipid máu có tiền sử đau thắt ngực hoặc nhồi máu cơ tim. Bệnh nhân sau làm cầu nối động mạch vành.
- Các thuốc đối kháng calci: Thuốc thường sử dụng phối hợp với chẹn beta khi dùng đơn độc beta không hiệu quả hoặc đối với những người bệnh không dung nạp hay có chống chỉ định.
Can thiệp mạch vành:
- Điều trị can thiệp động mạch vành áp dụng tại những cơ sở có tim mạch can thiệp.
Mổ làm cầu nối chủ - vành:
- Áp dụng ở những cơ sở có trung tâm mổ tim.
- Bệnh nhiều động mạch vành bị hẹp, ví dụ như tổn thương 3 động mạch vành.
- Tổn thương thân chung, tổn thương phức tạp không phù hợp cho can thiệp mà đoạn xa còn tốt...
Hiện các phương pháp can thiệp mạch vành qua da hay mổ làm cầu nối chủ - vành và điều trị nội khoa bằng thuốc đều giữ một vai trò rất quan trọng trong điều trị đau thắt ngực ổn định. Tuy nhiên, song song với việc kiểm soát cơ đau ngực ổn định bằng các phương pháp trên thì người bệnh cũng cần điều trị nội khoa các yếu tố đi kèm, kiểm soát huyết áp... để tăng hiệu quả trong điều trị.
Toàn bộ quy trình thăm khám, theo dõi, hồi phục điều trị bệnh tim mạch luôn được tích hợp cùng nhiều chuyên khoa để đem lại cơ hội phục hồi nhanh chóng, tránh tình trạng tái phát ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như kinh tế cho người bệnh.