Đái tháo đường típ 2 hủy hoại cơ thể người bệnh thế nào? Đái tháo đường tàn phá cơ thể người bệnh từ từ và nhiều khi xảy ra biến cố mà không có dấu hiệu báo trước. Vì thế, đái tháo đường típ 2 có thể được xem như một “sát thủ thầm lặng”.
Ngày nay, bệnh đái tháo đường típ 2 đang gia tăng nhanh chóng trên toàn thế giới và gây ảnh hưởng đến sức khỏe và kinh tế xã hội. Theo Liên đoàn Đái tháo đường Thế giới, số người đái tháo đường hiện nay là 451 triệu người và sẽ tăng lên 693 triệu người vào năm 2045. Chi phí toàn cầu cho bệnh đái tháo đường đã đạt xấp xỉ 850 tỷ USD mỗi năm.
Tuy nhiên, về khía cạnh truyền thông, bệnh đái tháo đường có vẻ ít được quan tâm so với ung thư hay các bệnh lây nhiễm nguy hiểm như dịch cúm gia cầm, HIV/AIDS… Một phần vì đây là một bệnh mạn tính, biến chứng mạn tính của bệnh xuất hiện từ từ, nguy cơ tử vong cấp tính của bệnh thấp nên nhiều người bệnh vẫn chưa quan tâm đúng mức đến bệnh của mình.
Trước đây, bệnh đái tháo đường típ 2 được xem như là một bệnh của người cao tuổi vì độ tuổi khởi phát bệnh thường là trung niên. Tuy nhiên, cùng với sự thay đổi của lối sống, độ tuổi mắc bệnh ngày càng trẻ hóa. Ngày nay, bệnh đái tháo đường típ 2 có thể gặp ở lứa tuổi trẻ hơn, đặc biệt là những người bị béo phì.
Điều gì xảy ra khi đường huyết cao?
Tăng đường huyết không chỉ là yếu tố nguy cơ chính mà còn gây rối loạn nhiều quá trình chuyển hóa khác của cơ thể như: rối loạn mỡ máu, xơ vữa mạch… gây ra các bệnh lý mạch máu lớn và mạch máu nhỏ toàn thân.
Đối với bệnh lý mạch máu lớn: Đái tháo thường làm tăng nguy cơ bị xuất huyết hoặc nhồi máu não; gây thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim; bệnh động mạch ngoại biên gây thiếu máu nuôi dưỡng chi. Theo các thống kê, phần lớn nguyên nhân tử vong ở bệnh nhân đái tháo đường là do các biến cố mạch máu lớn này, đặc biệt là đột quỵ và nhồi máu cơ tim.
Đối với các biến chứng bệnh lý mạch máu nhỏ: Tăng đường huyết lâu dài làm tăng nguy cơ bị bệnh lý võng mạc đái tháo đường (xuất huyết, xuất tiết võng mạc), đục thủy tinh thể; bệnh thận mạn và bệnh lý thần kinh ngoại biên. Các biến chứng trên mạch máu nhỏ của đái tháo đường ít khi gây tử vong ngay, nhưng có thể làm người bệnh trở nên tàn phế, giảm chất lượng cuộc sống. Hiện tại đái tháo đường típ 2 là nguyên nhân hàng đầu gây mù lòa, suy thận phải chạy thận nhân tạo và cắt cụt chi do nhiễm trùng, hoại tử bàn chân…
Cơ chế tác động lên mạch máu khi đường huyết tăng cao (tăng đường huyết) rất phức tạp. Đường huyết cao cùng với tình trạng đề kháng insulin gây ra rối loạn nhiều quá trình chuyển hóa của cơ thể như: rối loạn lipid máu, tăng stress gốc tự do, các hóa chất trung gian của quá trình viêm mạn tính. Các quá trình này tác động lên mạch máu làm tổn thương lớp nội mạc, rối loạn chức năng, làm mất cân bằng quá trình co giãn mạch, gây xơ vữa và dày thành mạch. Hậu quả cuối cùng là các mạch máu lớn bị suy giảm chức năng, xơ vữa, chít hẹp, mất tính đàn hồi và giảm chức năng tưới máu cho các mô cơ thể.
Đái tháo đường kèm tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa lipid
Đái tháo đường là yếu tố nguy cơ độc lập của bệnh lý tim mạch. Tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa lipid, hút thuốc lá là các yếu tố nguy cơ còn lại. Điều đáng tiếc là tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường típ 2 có kèm tăng huyết áp, rối loạn chuyển hóa lipid rất cao. Do đó, nguy cơ mắc các bệnh tim mạch trên những bệnh nhân này tăng thêm rất nhiều lần.
Đái tháo đường tàn phá cơ thể người bệnh từ từ và nhiều khi xảy ra biến cố mà không có dấu hiệu báo trước. Vì thế, đái tháo đường típ 2 có thể được xem như một “sát thủ thầm lặng”. Kiểm soát đường huyết là một phần trong chế độ điều trị bắt buộc. Đồng thời để đạt được kết quả khả quan nhất, bệnh nhân phải tích cực kiểm soát được cân nặng, huyết áp và lipid máu.
Bạn có thể quan tâm đến chủ đề:
- Hướng dẫn điều trị cơ bản cho bệnh nhân đái tháo đường típ 2
- Thực phẩm cho người đái tháo đường típ 2 nên và không nên ăn
- Bật mí 7 sự thật về tác hại của rượu đối với bệnh nhân đái tháo đường típ 2