1. Bệnh động mạch biên chi dưới
Bệnh động mạch ngoại biên là một biểu hiện thông thường nhất của xơ vữa động mạch, mặc dù bệnh này còn có thể là hậu quả của huyết khối, thuyên tắc, loạn sản xơ cơ và viêm động mạch.
Nguyên nhân chính của bệnh động mạch chi dưới là do xơ vữa động mạch. Các yếu tố nguy cơ gây ra xơ vữa động mạch bao gồm: tuổi (thường gặp ở lứa tuổi 55-60); giới (nam/nữ =3/1); thuốc lá; đái tháo đường; tăng huyết áp ; rối loạn lipid máu ; tăng homocystein máu.
2. Triệu chứng của bệnh động mạch biên chi dưới
Bệnh thường gây ra thiếu máu (thiếu cung cấp máu) cấp hay mạn tính. Các triệu chứng của bệnh thay đổi từ đau bắp chân khi vận động (thuật ngữ chuyên môn gọi là “đau cách hồi”) cho đến đau liên tục cả khi nghỉ ngơi (giai đoạn “thiếu máu chi nguy kịch”).
Bệnh động mạch ngoại biên tiến triển qua nhiều giai đoạn: Đầu tiên là đau chân xảy ra khi bệnh nhân đi bộ hay tập thể dục và ngồi nghỉ thì hết đau. Triệu chứng khập khiễng cách hồi này sẽ nặng dần theo thời gian, có nhiều mức độ nặng nhẹ khác nhau từ khó chịu chút ít cho đến đau rất nhiều, loét hoại tử từng phần. Đau cách hồi có thể tiến triển thành thiếu máu chi nguy kịch. Đây là tình trạng nguy ngập nhất của bệnh động mạch ngoại biên của chi và được định nghĩa như sau: đau chi cả khi nghỉ ngơi do thiếu máu, đau liên tục nhất là ở bàn chân và đau về đêm, tiến tới xuất hiện các tổn thương loét hay hoại tử của chi do thiếu máu nuôi (mất mô về phương diện sinh học).
3. Điều trị bệnh động mạch biên chi dưới
Mục tiêu điều trị bệnh động mạch ngoại biên là nhằm giảm nguy cơ huyết khối do xơ vữa trong hệ thống mạch máu và cải thiện các triệu chứng nếu có.
3.1.Điều trị các yếu tố nguy cơ
a) Ngưng thuốc lá
Hút thuốc lá là một yếu tố nguy cơ quan trọng của bệnh xơ vữa động mạch. Thuốc lá sẽ làm gia tăng LDL và giảm HDL , gia tăng CO máu, thúc đẩy co mạch ở các mạch máu xơ vữa. Ngoài ra , khói thuốc lá có tác dụng gia tăng kết dính tiểu cầu, tăng fibrinogen, Hct và hậu quả tăng độ quánh của máu.
Ngưng hút thuốc lá sẽ giúp làm chậm tiến triển bệnh động mạch ngoại biên và các bệnh liên quan đến tim mạch khác.
b) Kiểm soát đường huyết
Bệnh tiểu đường thúc đẩy quá trình xơ vữa chung, gây ra các biến chứng thiếu máu ở các mạch máu ngoại biên, bệnh thần kinh ngoại biên và giảm sức đề kháng với tác nhân nhiễm trùng. Các yếu tố này dễ dẫn đến hiện tượng loét chân và nhiễm trùng bàn chân.
c) Ức chế HMG - CoA Reductase (statin)
Những chứng cứ hiện nay ủng hộ việc sử dụng statin trong điều trị tăng cholesterol máu nhằm ngăn ngừa tiên phát và thứ phát sự cố tim mạch. Việc sử dụng simvastatin 40mg liên quan với giảm sự cố tim mạch (giảm 12% tử vong chung, 17% tử vong mạch máu, 24% sự cố mạch vành, 27% đột quỵ, 16% can thiệp mạch máu ngoại biên).
Ở bệnh nhân bệnh động mạch ngoại biên, nồng độ LDL đích cần đạt được là <100mg/dL (<2,59mmol/L) và cần phải điều chỉnh tình trạng gia tăng triglyceride và hạ HDL. Ở những bệnh nhân có nguy cơ cao (tổn thương xơ vữa nhiều vị trí), nồng độ LDL đích cần đạt được là <70mg/dL.
d) Kiểm soát huyết áp
Mục tiêu điều trị hạ áp đặt ra ở bệnh nhân động mạch ngoại biên vẫn không khác với quần thể chung tăng huyết áp. Huyết áp đích cần đạt được là <140/90mmHg và phải thấp hơn <130/80mmHg đối với người mắc tiểu đường hoặc suy thận .
e) Kháng tiểu cầu
Kháng tiểu cầu làm giảm các sự cố mạch máu. Nghiên cứu CAPRIE đã chứng minh hiệu quả của clopidogrel lớn hơn ASA trong ngăn ngừa thứ phát bệnh nhân có bệnh xơ vữa động mạch (đột quỵ, nhồi máu cơ tim và bệnh động mạch ngoại biên).
Ngoài ra, việc kết hợp clopidogrel với ASA có gia tăng không rõ rệt hiệu quả ngăn ngừa nhưng cũng gia tăng nguy cơ xuất huyết.
3.2 Điều trị triệu chứng và cải thiện chức năng
a) Tập luyện
Tập luyện theo giám sát giúp cải thiện được mức độ nặng của đau khập khiễng cách hồi. Chế độ luyện tập có thể sử dụng đi trên thảm lăn hoặc đi bộ trên đường đủ cường độ để tạo ra khập khiễng cách hồi, sau đó sẽ nghỉ ngơi cho đến khi hết đau và tập lại , mỗi đợt tập luyện kéo dài khoảng 30-60 phút. Mỗi đợt tập luyện sẽ tiến hành 3 lần trong tuần và trong 3 tháng.
Biện pháp này có thể làm giảm các triệu chứng của bệnh sau vài tháng. Tuy hiệu quả xuất hiện chậm nhưng đây được coi là biện pháp điều trị cơ bản cho tất cả các bệnh nhân bị bệnh động mạch ngoại biên. Việc luyện tập và theo dõi tại các trung tâm phục hồi chức năng là rất có ích. Nếu không có điều kiện đến các trung tâm phục hồi chức năng, hãy đề nghị bác sĩ lập một kế hoạch tập luyện phù hợp riêng.
b) Sử dụng thuốc
Cho đến nay, chỉ có cilostazol và naftidrofuryl là những thuốc được công nhận trong điều trị đau khập khiễng cách hồi và cải thiện chức năng.
Cilostazol: Đây là thuốc thuộc nhóm ức chế phosphodiesterase III với tác dụng giãn mạch, chuyển hoá và kháng tiểu cầu.
Naftidrofuryl: Thuốc thuộc nhóm đối kháng 5-hydroxytryptamine type 2 và có tác dụng cải thiện chuyển hoá cơ và giảm kết tập hồng cầu và tiểu cầu. Liều sử dụng thuốc trong các thử nghiệm là 600 mg/ngày. Thuốc có tác dụng phụ là các rối loạn nhẹ đường tiêu hoá.
3.3. Điều trị tái thông: Can thiệp mạch máu và phẫu thuật mạch máu
Hầu hết các bệnh nhân bệnh động mạch ngoại biên chi dưới đều có một quá trình diễn tiến lâu dài, có sự bù trừ thông qua các mạch máu bàng hệ. Các bệnh nhân bệnh động mạch ngoại biên có triệu chứng khập khiễng cách hồi ảnh hưởng đến chất lượng sống cần xem xét tái thông bằng can thiệp nội mạch hay phẫu thuật mạch máu.
Lựa chọn tái thông bằng can thiệp nội mạch hoặc phẫu thuật phụ thuộc vào độ tuổi, bệnh kèm, dạng tổn thương (theo phân loại tổn thương TASC). Phẫu thuật thường đặt ra ở những bệnh nhân có giải phẫu động mạch chi mà dễ đạt được kết quả lâu dài và nguy cơ tim mạch thấp đối với phẫu thuật. Nói chung người ta đều nhất trí rằng can thiệp nội mạch nên là điều trị chọn lựa cho phân loại tổn thương A, B của TASC và phẫu thuật mạch máu là chọn lựa cho phân loại tổn thương C,D của TASC.
Bệnh động mạch ngoại biên chi dưới là bệnh lý có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng sống, nguy cơ tử vong ở bệnh nhân cao tuổi và có nhiều bệnh lý đi kèm. Do tính chất âm thầm của bệnh làm cho bệnh nhân và bác sĩ ít cảnh giác với bệnh lý này. Vì vậy sự can thiệp sớm kết hợp với các biện pháp điều trị nội khoa tích cực giảm nguy cơ là nhân tố quan trọng cải thiện chất lượng sống và triệu chứng của bệnh nhân.
Bài viết tham khảo nguồn: Hội Tim mạch học Việt Nam