1. Thuốc ức chế beta là gì?
Thuốc ức chế beta (hay thuốc chẹn beta, beta blocker) là một trong các thuốc được sử dụng khá phổ biến trong điều trị bệnh tim mạch , giúp làm giảm tỷ lệ tử vong và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Phần lớn các thuốc ức chế beta hấp thu tốt qua đường uống. Các thuốc này hoạt động với cơ chế chẹn thụ thể cường giao cảm và ức chế các tác dụng giao cảm ở tế bào cơ tim (bao gồm tác dụng điều nhịp tim, kích thích cơ tim, dẫn truyền thần kinh cơ tim và co sợi cơ âm tính) và ở cơ khí quản (tác dụng co thắt khí quản).
Thuốc ức chế beta là nhóm thuốc kê đơn. Bác sĩ sẽ kê đơn thuốc phù hợp nhất với tình trạng sức khỏe của từng bệnh nhân. Các ví dụ về thuốc chẹn beta và tên biệt dược, bao gồm: acebutolol, atenolol, metoprolol, bisoprolol, propranolol,...
2. Cơ chế tác dụng của thuốc ức chế beta
Nhóm thuốc chẹn beta có tác động ức chế hoạt động của các chất dẫn truyền thần kinh adrenaline và noradrenaline thông qua cơ chế chẹn thụ thể beta, ngăn chặn các chất này gắn vào thụ thể β1 (beta-1) và β2 (beta-2) của tế bào thần kinh giao cảm , do đó có tác dụng làm chậm nhịp tim, giãn mạch máu , giảm huyết áp, co thắt phế quản...
Thụ thể β1 có ở tim, mắt , thận . Trong khi đó, thụ thể β2 có ở phổi , đường tiêu hóa, tử cung , mạch máu, cơ vân. Tùy theo vị trí tác động trên thụ thể nào, thuốc ức chế beta sẽ có tác dụng tương ứng. Trong điều trị bệnh tim mạch, các thuốc nhóm chẹn beta đều phát huy vai trò tác dụng, song cơ chế tác dụng của thuốc ức chế beta có thể khác nhau dựa trên từng phân nhóm:
- Phân nhóm 1 (gồm atenolol, bisoprolol, metoprolol):
Tác động chẹn chọn lọc chủ yếu trên thụ thể beta-1 nên tác dụng chính bao gồm làm chậm nhịp tim, giảm co thắt, giảm cung lượng tim, giảm huyết áp (tác dụng đầu nguồn). Vì cơ chế này mà thuốc ức chế beta nhóm 1 có hiệu quả hạ áp nhanh, mạnh nhưng cũng đồng thời làm chậm nhịp tim, không có lợi cho những người nhịp tim chậm.
- Phân nhóm 2 (gồm propranolol, nadolol, timolol):
Có tác động chẹn beta không chọn lọc. Các thuốc nhóm này vừa chẹn beta-1, làm hạ huyết áp như phân nhóm I đồng thời lại vừa chẹn beta-2, dẫn đến giãn mạch, giảm sức cản ngoại vi, hạ huyết áp (tác dụng cuối nguồn). Do cơ chế tác dụng của thuốc ức chế beta nhóm này lên cả 2 thụ thể mà tác động hạ huyết áp chỉ ở mức trung bình, song không làm chậm nhịp tim quá mạnh như với phân nhóm 1.
- Phân nhóm 3 (gồm carvedilol, labetalol):
Tác động ức chế không chọn lọc trên beta-1 và beta-2, đồng thời lại chẹn thụ thể alpha-1, gây ra tác dụng giãn mạch, giảm sức cản ngoại vi, hạ huyết áp (tác dụng cuối nguồn). Như vậy, phân nhóm III có tác dụng hạ huyết áp do cơ chế giãn mạch là chủ yếu (chẹn alpha-1 và beta-2).
3. Chống chỉ định của thuốc ức chế beta
Không phải bệnh nhân nào cũng có thể dùng được loại thuốc này. Chống chỉ định của thuốc ức chế beta bao gồm:
- Hen: Chống chỉ định này được áp dụng cho các thuốc chẹn beta không chọn lọc và các chẹn beta chọn lọc trên beta-1;
- Bloc nhĩ - thất độ 2 và 3;
- Suy tim sung huyết mất bù;
- Nhịp tim chậm, với khoảng nhịp dưới 50 lần/phút;
- Hội chứng Raynaud và một số tổn thương mạch máu ngoại vi khác;
- Suy gan với triệu chứng tăng bilirubin huyết, cổ trướng nhiều, bệnh lý não do gan;
- Chống chỉ định phối hợp với amiodaron (nguy cơ rối loạn nhịp nặng);
- Chống chỉ định phối hợp với thuốc ức chế monoamin oxydase (nhóm iMAO);
- Khi có thai (chưa được kiểm chứng mức độ an toàn) và cho con bú (khả năng thuốc vào sữa mẹ).
Tóm lại, thuốc chẹn beta được chỉ định rất phổ biến trong điều trị bệnh tim mạch , đặc biệt là tăng huyết áp . Tuy nhiên, tùy theo cơ chế tác động của từng phân nhóm mà bác sĩ sẽ phối hợp thuốc một cách phù hợp để kê đơn cho bệnh nhân.
Nguồn tham khảo: Tài liệu của Hội Tim mạch học Việt Nam