Bệnh mạch vành đang là căn nguyên gây tử vong hàng đầu ở nhiều nước trên thế giới. Trong đó chủ yếu là xơ vữa động mạch vành dẫn tới tắc động mạch vành. Do đó ưu điểm của kỹ thuật chụp, nong và đặt stent động mạch vành đã giải quyết được những vấn đề của bệnh mạch vành.
1. Chụp động mạch vành
1.1 Chức năng của tim
Chức năng chính của tim là bơm máu lên phổi và đến các bộ phận khác của cơ thể, và cơ tim cũng là một mô sống nên chúng cũng cần máu nuôi dưỡng. Vì vậy, chúng cũng cung cấp máu cho tim qua những mạch máu đi trực tiếp vào cơ tim. Những mạch máu này được gọi là động mạch vành.
1.2 Bệnh động mạch vành
Bệnh động mạch vành xuất hiện khi một hoặc nhiều nhánh động mạch này bị tắc nghẽn một phần hay hoàn toàn (thường là do các mảng xơ vữa). Khi động mạch vành bị hẹp trên 50% khẩu kính của lòng mạch sẽ xảy ra cơn đau thắt ngực .
Do sự tích tụ cholesterol, các axit béo và canci trong lòng động mạch vành và tạo ra những mảng xơ vữa làm hẹp động mạch vành . Vì vậy khi hoạt động thể lực, tim sẽ hoạt động tăng co bóp, tăng tần số tim, tăng huyết áp... để tăng cung cấp oxy cho cơ thể. Do đó nhu cầu oxy của cơ tim cũng tăng lên. Nếu động mạch vành bị hẹp, sự cung cấp máu cho vùng cơ tim tương ứng trở nên không đầy đủ, cơ tim bị thiếu máu và thiếu oxy sẽ gây ra cơn đau thắt ngực.
Cơn đau thắt ngực xảy ra khi bệnh nhân gắng sức và giảm đi khi bệnh nhân nghỉ ngơi, thì ta gọi là cơn đau thắt ngực ổn định . Nếu các mảng xơ vữa trong lòng động mạch vành bị nứt hay bị gãy, cơn đau thắt ngực kéo dài hơn bình thường và xảy ra cả khi nghỉ ngơi, thì đó là cơn đau thắt ngực không ổn định. Khi huyết khối hình thành và gây tắc hoàn toàn động mạch vành thì ta gọi là nhồi máu cơ tim (NMCT).
1.3 Chụp động mạch vành
Chụp động mạch vành là một thủ thuật cơ bản và được sử dụng rộng rãi trong các quy trình can thiệp về tim mạch, với mục đích là đánh giá được toàn bộ hệ thống mạch vành về mặt hình thành. Chụp động mạch vành được tiến hành với việc sử dụng các ống thông chuyên dụng để đưa loại thuốc cản quang vào trong lòng động mạch vành, nhờ đó hiển thị được hình ảnh của hệ động mạch vành trên màn hình tăng sáng. Dựa vào những hình ảnh này cho phép đánh giá được những tổn thương của hệ thống mạch vành bao gồm: hẹp, tắc động mạch, bóc tách, huyết khối,...
1.4 Chỉ định và chống chỉ định
Những trường hợp cần chụp động mạch vành bao gồm:
- Đau ngực không ổn định và nhồi máu cơ tim.
- Đau thắt ngực ổn định: chụp động mạch vành nhằm can thiệp khi các thăm dò không xâm lấn thấy nguy cơ cao hoặc vùng thiếu máu cơ tim rộng, hoặc người bệnh đã được điều trị tối ưu nội khoa không khống chế được triệu chứng.
- Những người có nghi ngờ có bệnh mạch vành hoặc đã biết trước khi có bệnh mạch vành.
- Chụp động mạch vành để kiểm tra trước phẫu thuật tim, mạch máu lớn ở người cao tuổi (nam >45 tuổi, nữ >50 tuổi).
- Chụp động mạch vành kiểu tra trước phẫu thuật không phải tim mạch ở những người bệnh nghi ngờ bệnh mạch vành.
- Sau khi cấp cứu ngừng tuần hoàn ngoài bệnh viện.
- Đau ngực tái phát sau can thiệp động mạch vành hoặc sau khi phẫu thuật làm cầu nối chủ vành.
- Suy tim không rõ nguyên nhân.
- Chụp động mạch vành để kiểm tra những bất thường động mạch vành được phát hiện trên chụp cắt lớp vi tính đa dãy động mạch vành.
- Những người bệnh có rối loạn nhịp nguy hiểm (block nhĩ thất, nhịp nhanh thất,...)
- Trong một số trường hợp đặc biệt khác như: nghề nghiệp, lối sống nguy cơ cao, kết hợp thăm dò khác,...
Những đối tượng chống chỉ định tương đối với chụp động mạch vành bao gồm:
- Người bệnh trong tình trạng bị nhiễm khuẩn nặng
- Người bệnh có tiền sử sốc phản vệ với thuốc cản quang
- Người bệnh bị suy thận nặng
- Có rối loạn hóa sinh, điện giải, thiếu máu,...
- Suy tim mất bù
- Phình động mạch chủ bụng
- Tăng huyết áp không khống chế được
2. Nong và đặt stent động mạch vành
2.1 Can thiệp động mạch vành
Can thiệp động mạch vành qua da là qua ống thông luồn dây dẫn qua tổn thương rồi sau đó đưa bóng và stent lên để nong rộng chỗ hẹp hoặc tắc, đặt stent để lưu thông lòng mạch. Can thiệp động mạch vành có thể cũng đi kèm với các thủ thuật khác như hút huyết khối, khoan phá màng xơ vữa,... Ngược với phẫu thuật bắc cầu nối chủ vành cần mở lồng ngực thì can thiệp động mạch vành có thể thực hiện bằng cách chỉ cần mở một lỗ nhỏ trên da để đưa catheter vào động mạch ở đùi hoặc cổ tay.
Bệnh nhân sẽ được gây tê tại vùng chọc do đó thủ thuật này không gây đau hơn một lần lấy máu làm xét nghiệm. Bệnh nhân vẫn luôn tỉnh táo trong suốt quá trình thực hiện thủ thuật. Khi chụp động mạch vành, bác sĩ sẽ chỉ cho người bệnh động mạch vành bị hẹp hoặc tắc, vị trí tắc nghẽn và mức độ tổn thương có cần được can thiệp nong và đặt stent mạch vành hay không. Quá trình thực hiện thủ thuật thường được tiến hành trong vòng 1 giờ và phần lớn bệnh nhân có thể về nhà sau 1 đến 2 ngày tính từ khi kết thúc thủ thuật.
Kỹ thuật chụp, nong và đặt stent động mạch vành qua da giải quyết được tình trạng hẹp tắc trong động mạch vành, giúp cho cơ tim được tưới máu tốt hơn, kể cả trong điều kiện hoạt động gắng sức của bệnh nhân. Do đó, cho phép bệnh nhân có thể hoạt động trở lại bình thường mà không xuất hiện những cơn đau thắt ngực. Trong trường hợp nhồi máu cơ tim, cùng với việc điều trị bằng thuốc tối ưu, thủ thuật nong và đặt stent là một biện pháp giúp tái tưới máu động mạch vành nhằm hạn chế bớt vùng cơ tim bị tổn thương do thiếu máu, và đồng thời cũng giúp phòng tắc hẹp tái phát, và hạn chế được những cơn đau thắt ngực trở lại.
2.2 Nguy cơ
Những nguy cơ của thủ thuật này bao gồm chảy máu, nhiễm trùng, phản ứng dị ứng với thuốc cản quang sử dụng trong khi chụp, nguy cơ tổn thương mạch máu, đột quỵ và suy thận. Ngoài ra, các stent đã đặt vào trong động mạch vành có thể đột ngột bị tắc và gây ra nhồi máu cơ tim cần phải can thiệp lại hoặc làm cầu nối cấp cứu, thậm chí có thể dẫn tới tử vong. Khả năng xảy ra tai biến hay không phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu lớn trên thế giới, nguy cơ tai biến cần phải can thiệp cấp cứu hay tử vong có liên quan đến kỹ thuật chụp động mạch vành là khá thấp chỉ có khoảng 1 đến 2% trường hợp có tai biến
Trước khi thực hiện chụp động mạch vành , người bệnh sẽ được dùng đầy đủ một số thuốc ví dụ như: aspirin, hay clopidogrel,... và cần dừng một số loại thuốc khác như: thuốc đái tháo đường nhóm metformin hay coumadin. Bệnh nhân có tiền sử dị ứng với thuốc cản quang có thể phải dùng một số thuốc chống dị ứng trước thủ thuật ít nhất 1 ngày để giảm nguy cơ xảy ra phản ứng dị ứng nặng nề. Tốt nhất hãy báo cho bác sĩ nếu như gặp các vấn đề dị ứng với thuốc nhuộm hay tôm cua.
2.3 Kỹ thuật nong và đặt stent động mạch vành
Khi ở trong phòng can thiệp, bệnh nhân sẽ được chuyển lên bàn can thiệp. Chụp, nong và đặt stent động mạch vành có thể được tiến hành thông qua động mạch vùng bẹn, khuỷu hoặc cổ tay. Vùng làm thủ thuật sẽ vô khuẩn tuyệt đối, được làm sạch và cạo lông, sau đó sát khuẩn sạch và phủ vải vô khuẩn xung quanh. Trước khi mở một lỗ nhỏ vào lòng động mạch tại vùng đó, bác sĩ làm thủ thuật sẽ gây tê vùng đó bằng thuốc tê.
Tiếp theo, một ống nhỏ hay còn được gọi là sheath sẽ được đưa vào động mạch. Qua ống này, để đến được động mạch vành sẽ có một catheter dẫn đường đặc biệt sẽ được đưa vào để lái theo động mạch. Tiếp theo đó, một dây dẫn rất nhỏ và mỏng được đưa đến vị trí tổn thương bằng cách luồn qua ống thông trên, sau đó xuyên qua chỗ tắc trong lòng động mạch vành.
Bác sĩ sẽ chọn bóng nhỏ hay to tùy thuộc vào tổn thương của động mạch vành, để đưa vào nong chỗ hẹp tắc trong động mạch vành. Quả bóng này sẽ giúp mở chỗ tắc bằng cách ép mạnh mảng xơ vữa vào thành mạch làm mở thông động mạch. Trong một vài trường hợp có thể cần nong một vài lần tiếp theo với những cỡ bóng to hơn và với áp lực cao hơn để mức độ tắc nghẽn giảm. Thông thường, mức độ hẹp có thể giảm đi từ 20 – 30% khi nong động mạch vành bằng bóng. Cuối cùng, một hoặc một vài stent sẽ được đặt vào những vị trí bị tổn thương để giảm tỷ lệ tái hẹp sau can thiệp.
Trong kỹ thuật đặt stent, trên đầu một dây dẫn đặc biệt được gắn một stent được đặt bên ngoài quả bóng nong. Để làm mở stent và ép vào thành động mạch vành thì phải bơm căng quả bóng nong. Stent sẽ nằm lại trong lòng mạch sau khi dây dẫn được rút ra, và có tác dụng như một giá đỡ làm cho lòng mạch không co hẹp lại.
Nhờ vào tiến bộ khoa học, sự phát triển của loại stent phủ thuốc có tác dụng làm giảm nguy cơ mảng xơ vữa phát triển trở lại sau một thời gian. Các mắt lưới trên stent sẽ được phủ thuốc lên. Sau khi stent được đưa vào trong lòng động mạch vành, thuốc sẽ dần dần được phóng thích vào thành mạch trong khoảng vài tuần hoặc vài tháng.
Khi động mạch vành bị tắc chỉ được điều trị với nong bằng bóng đơn thuần, khoảng 30% có nguy cơ của hẹp tái phát gây ra triệu chứng đau thắt ngực tái phát. Nếu đặt stent, nguy cơ này sẽ giảm xuống còn khoảng 20%. Nếu đặt stent phủ thuốc thì nguy cơ tái hẹp động mạch chỉ còn từ 5 – 10%. Bác sĩ làm thủ thuật sẽ tư vấn cho người nhà của bệnh nhân nên đặt stent thường không phủ thuốc hay đặt stent phủ thuốc tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể.
Trước khi chụp và đặt stent động mạch vành, bệnh nhân thường được bắt đầu điều trị trước can thiệp bằng clopidogrel một vài ngày. Clopidogrel giống như aspirin là một thuốc có tác dụng làm giảm kết dính tiểu cầu. Clopidogrel và những thuốc tương tự cần được dùng ít nhất trong vòng 4 tuần sau đặt stent không bọc thuốc. Sau khi được đặt stent phủ thuốc cần 6-12 tháng để phòng ngừa hình thành huyết khối gây tắc stent.
Chỉ động trong trường hợp:
- Đau thắt ngực ổn định mà không khống chế được dù đã điều trị nội khoa tối ưu
- Đau thắt ngực ổn định, có bằng chứng của tình trạng thiếu máu cơ tim (nghiệm pháp gắng sức dương tính hoặc xạ hình tưới máu cơ tim dương tính) và tổn thương ở động mạch vành cấp máu cho một vùng lớn cơ tim.
- Đau ngực không ổn định/nhồi máu cơ tim cấp không có ST chênh lên mà phân tầng nguy cơ cao.
- Nhồi máu cơ tim cấp có ST chênh lên.
- Đau thắt ngực xuất hiện sau khi phẫu thuật làm cầu nối chủ vành.
- Có triệu chứng của tái hẹp mạch vành sau can thiệp động mạch vành qua da,...
Chống chỉ định trong những trường hợp sau:
- Tổn thương không thích hợp cho can thiệp (ví dụ: tổn thương nặng lan tỏa, tổn thương nhiều thân mạch vành, tổn thương đoạn xa,...).
- Tổn thương mạch vành có nguy cơ cao dẫn đến tử vong nếu động mạch vành đó bị tắc lại trong quá trình can thiệp.
- Thể tạng dễ chảy máu nặng (số lượng tiểu cầu thấp, rối loạn đông máu,...).
- Người bệnh không tuân thủ điều trị trước và sau khi làm thủ thuật can thiệp.
- Tái hẹp nhiều vị trí sau khi can thiệp,...
Lưu ý: nhiều người bệnh có chống chỉ định tương đối, nhưng can thiệp mạch vành qua da lại là lựa chọn điều trị duy nhất của họ.
Để phòng tránh bệnh động mạch vành, sự khuyến cáo nên luyện tập thể dục thường xuyên, tránh căng thẳng quá mức, bỏ hút thuốc lá, theo dõi và điều trị thật tốt các bệnh như: tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, đái tháo đường, béo phì, duy trì mức cân nặng lý tưởng. Thực hiện chế độ ăn nhạt, cử mở và các phủ tạng động vật, hạn chế ăn trứng, đồ ngọt, không uống quá nhiều bia, rượu.
Chụp và can thiệp động mạch vành là một thủ thuật được gọi là an toàn, không phải mổ. Nguy cơ và biến chứng thì rất ít và việc hiểu biết có thể giúp phát hiện và điều trị bệnh sớm hơn. Chụp động mạch vành trên máy DSA là phương tiện tốt nhất giúp cho bác sĩ phát hiện và đánh giá mức độ tổn thương, tắc nghẽn của động mạch vành. Thủ thuật can thiệp động mạch vành có thể không thành công, ngay cả khi thành công, chỗ nghẽn có thể tắc hoặc hẹp trở lại. Có khi phải phẫu thuật bắt cầu khẩn cấp.
Khi có những biểu hiện đau thắt ngực từng cơn, nhất là khi gắng sức. Hãy đến ngay cơ sở y tế chuyên khoa tim mạch để được thăm khám, làm các xét nghiệm và chẩn đoán có bị mắc bệnh động mạch vành hay không, để có hướng tư vấn và phương pháp điều trị thích hợp.
- Miễn phí khám chuyên khoa và giảm giá 50% nhiều gói khám tim mạch như:
+ Gói sàng lọc tim mạch cơ bản
+ Gói khám tăng huyết áp
+ Gói khám suy tim
+ Gói khám bệnh mạch vành
+ Gói khám tim mạch toàn diện