1. Rung nhĩ và cuồng nhĩ là gì?
Cuồng nhĩ là một loại nhịp nhanh nhĩ dẫn đến rối loạn nhịp tim. Trong đó, tâm nhĩ bị cuồng động nhĩ, phát ra tín hiệu khiến tim đập quá nhanh theo tần số của nhịp nhanh. Điện tâm đồ ghi nhận các nhát thất bóp trong cuồng nhĩ thường đều đặn. Điều này đã được chứng minh dưới khảo sát điện sinh lý, cơ chế của cuồng nhĩ là những vòng vào lại có kích thước lớn.
Rung nhĩ cũng là một loại nhịp nhanh nhĩ khác dù trong một số trường hợp cho thấy có mối liên quan mật thiết với cuồng nhĩ. Tuy nhiên, rối loạn nhịp tim xảy ra ở rung nhĩ thường có tính hỗn loạn hơn nhiều và dẫn đến nhịp tim nhanh chậm thất thường, khiến người bệnh cảm giác hồi hộp, khó chịu vùng ngực trái. Điểm khác biệt này so với cuồng nhĩ là do trong rung nhĩ, khảo sát điện học cho thấy hai buồng nhĩ nhận tín hiệu điện từ vô tổ chức và dẫn truyền các tín hiệu này một cách bừa bãi xuống hai thất thay vì do các vòng vào lại như trong cuồng nhĩ . Các vòng vào lại trong rung nhĩ, nếu có, thường ít gặp hơn và có kích thước nhỏ, nên việc kiểm soát bằng cách can thiệp sẽ không hiệu quả cao.
Trong thực hành lâm sàng, bác sĩ sẽ phân biệt hai chẩn đoán này chủ yếu là nhờ vào điện tâm đồ . Đường biểu diễn điện tim của sóng co bóp từ hai nhĩ trong rung nhĩ là một đường lăn tăn không đều trong khi trong cuồng nhĩ là dạng răng cưa mẻ và nhịp thất có thể đều.
Mặt khác, dù cả hai tình trạng này đều làm tăng nguy cơ hình thành huyết khối, gây đột quỵ não , việc phân biệt giữa rung nhĩ và cuồng nhĩ rõ ràng là rất quan trọng, do có ảnh hưởng đến điều trị và tiên lượng lâu dài của người bệnh. Tần số nhịp tim, các triệu chứng của người bệnh trong hai bệnh lý này và việc giảm nguy cơ hình thành máu đông đều có thể quản lý được bằng thuốc (như warfarin hoặc thuốc chống đông máu thế hệ mới.
Vậy nên, tình trạng cuồng động nhĩ luôn cần phải được sớm chẩn đoán rung nhĩ và cuồng nhĩ để có thể điều trị đúng và giảm nguy cơ đột quỵ với một điểm khác biệt nổi bật là cuồng nhĩ có thể giải quyết triệt để bằng cắt đốt trong khi rung nhĩ chỉ có thể điều trị nội khoa là chủ yếu.
2. Người bị rung nhĩ hoặc cuồng nhĩ có cảm giác khác biệt gì nhau hay không?
Trong thực tế, có không ít bệnh nhân chỉ được chẩn đoán rung nhĩ hay cuồng nhĩ khi đã xảy ra biến chứng nhồi máu não nên nhập viện. Một số bệnh nhân khác được phát hiện là do thăm khám sức khỏe tổng quát hay đi khám vì một bệnh lý khác nhưng có được đo điện tim.
Chỉ có một số rất ít người bệnh mắc phải rung nhĩ hay cuồng nhĩ đi khám vì triệu chứng rối loạn nhịp đơn thuần. Và sự khác biệt về triệu chứng cơ năng giữa rung nhĩ và cuồng nhĩ thường rất mơ hồ và không đặc hiệu.
Các triệu chứng lâm sàng phổ biến của hai dạng rối loạn nhịp tim này là:
- Đánh trống ngực , người bệnh cảm thấy tim mình đập mạnh
- Mệt mỏi
- Hụt hơi
- Mờ mắt, choáng váng
- Cảm giác như sắp ngất đi
Các triệu chứng nghiêm trọng hơn do rung nhĩ hay cuồng nhĩ gây ra có thể bao gồm những điều sau đây:
- Khó thở
- Đau ngực hay nặng ngực
- Đổ mồ hôi
- Ngất xỉu hoặc mất ý thức
3. Các nguyên nhân và yếu tố nguy cơ của rung nhĩ và cuồng nhĩ có khác nhau không?
Cho đến nay, nguyên nhân gây ra rung nhĩ hoặc cuồng nhĩ vẫn chưa được hiểu biết chắc chắn. Tuy nhiên, nhiều bác sĩ và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe đều thống nhất cho rằng các yếu tố nguy cơ của hai chứng rối loạn nhịp tim này về cơ bản là giống nhau, bao gồm:
- Tăng huyết áp
- Bệnh đái tháo đường
- Suy tim
- Béo phì
Bất kỳ các bệnh lý cấp tính hay mạn tính trên tim có mức độ nghiêm trọng như bệnh van tim, bệnh cơ tim và/hoặc tình trạng thiếu máu cục bộ
- Tuổi cao
- Có phẫu thuật trên tim gần đây
- Bệnh phổi mãn tính
- Hội chứng ngưng thở khi ngủ
- Bệnh cường giáp
- Uống rượu quá mức hoặc có sử dụng rượu mạnh liên tục
4. Có sự phân biệt trong các phương pháp điều trị rung nhĩ và cuồng nhĩ hay không?
Nói chung, bởi vì hai dạng rối loạn nhịp tim này có cách biểu hiện giống nhau và nguy cơ biến chứng cũng không khác nhau, việc điều trị hầu như tương tự nhau. Mặc dù cách lựa chọn thuốc và liều lượng có thể thay đổi tùy vào thể trạng người bệnh và các bệnh lý đi kèm, các nhóm thuốc đã được chứng minh là có hiệu quả để điều trị rung nhĩ và cuồng nhĩ theo khuyến cáo là nhóm thuốc chống loạn nhịp , nhóm thuốc kiểm soát tần số thất và nhóm thuốc chống đông máu để ngăn ngừa cục máu đông.
Ngoài ra, đối với cuồng nhĩ đơn thuần qua khảo sát điện sinh lý thấy có vòng vào lại lớn, người bệnh có thể được cân nhắc chỉ định can thiệp bao gồm phẫu thuật điện tim học trên tim, cắt đốt (cắt đứt vòng vào lại bằng sóng vô tuyến, cắt đốt bằng laser, cắt phương pháp đóng băng) trên vùng mô nhĩ bệnh lý. Từ đó, vùng mô nhĩ sau can thiệp sẽ hạn chế tạo ra các xung điện hay các đường dẫn truyền bất thường, nhịp tim được chỉ huy bởi một ổ chủ nhịp với tần số đều đặn theo sinh lý.
Song song đó, dù rung nhĩ và cuồng nhĩ rất khó để ngăn chặn vì có rất nhiều nguyên nhân tiềm ẩn không thể thay đổi như lớn tuổi, mọi người vẫn có thể chủ động phòng ngừa mắc bệnh bằng cách tránh mắc phải các bệnh lý nguy cơ với các hoạt động đơn giản hằng ngày:
- Hoạt động thể chất thường xuyên
- Tiêu thụ một chế độ ăn lành mạnh cho tim, ít muối, chất béo bão hòa, chất béo chuyển hóa và cholesterol
- Tránh uống quá nhiều rượu và cafein
- Đừng hút thuốc
- Duy trì cân nặng khỏe mạnh
Điều trị tốt các yếu tố nguy cơ , bệnh tiềm ẩn như tăng huyết áp, hội chứng ngưng thở khi ngủ , cường giáp, đái tháo đường và bất kỳ bệnh lý nào trên tim, đặc biệt là các cơn đau thắt ngực , bệnh van tim hoặc suy tim.
5. Tiên lượng cho một người bệnh rung nhĩ hay cuồng nhĩ như thế nào?
Tiên lượng và tuổi thọ trung bình cho những bệnh nhân rung nhĩ hay cuồng nhĩ là phụ thuộc vào tình trạng cơ bản khác nhau. Các cá nhân có nhiều bệnh lý phức tạp đi kèm và đáp ứng kém với thuốc thì sẽ có tiên lượng xấu hơn, nguy cơ gặp phải biến chứng do rối loạn nhịp cao hơn.
Trong hầu hết các trường hợp, bệnh nhân chỉ bị cuồng động nhĩ đơn thuần có thể có tiên lượng khả quan hơn một phần so với bệnh nhân bị rung nhĩ. Điều này là nhờ vào kỹ thuật cắt đốt bằng tần số vô tuyến ngày nay đã đạt được hiệu quả chuyển nhịp cao với tỷ lệ tái phát rất thấp. Nhờ đó, chức năng tim mạch của người bệnh cuồng nhĩ có thể trở lại như bình thường, chỉ cần kiểm tra định kì sau can thiệp mà không cần phải uống thuốc lâu dài.
Tuy nhiên, nếu không được kiểm soát tốt, cả hai dạng rối loạn nhịp tim nêu trên đều có khả năng trở nên nghiêm trọng. Mặc dù có một số ý kiến cho rằng cuồng nhĩ ít nguy hiểm hơn rung nhĩ vì có ít nguy cơ thuyên tắc do hình thành cục máu đông trong buồng tim thấp hơn, một khi bệnh cảnh nhồi máu cục bộ xảy ra, tại não là thường gặp nhất, di chứng để lại là vĩnh viễn.
Tóm lại, rung nhĩ và cuồng nhĩ đều là hai loại rối loạn nhịp tim khá phổ biến, đều khiến tim đập nhanh hơn bình thường và người bệnh cảm giác hồi hộp, đánh trống ngực. Sự khác biệt lớn nhất và có ý nghĩa nhất giữa rung nhĩ và cuồng nhĩ là hầu hết các trường hợp cuồng nhĩ có thể được chữa khỏi bằng cắt đốt bằng tần số vô tuyến trong khi rung nhĩ chủ yếu được điều trị bằng thuốc chống loạn nhịp. Hiểu biết được điều này sẽ giúp việc kiểm soát người bệnh được tốt hơn, hạn chế biến chứng do rối loạn nhịp về lâu dài.
Bệnh nhân rung nhĩ và cuồng nhĩ cần khám ngay bác sĩ tim mạch vì bệnh có nguy cơ dẫn tới đột quỵ rất nguy hiểm.
- Chẩn đoán bằng điện tâm đồ là một xét nghiệm thường quy.
- Có thể được phát hiện nhờ các thiết bị di động theo dõi nhịp tim trong khoảng thời gian dài như Holter điện tâm đồ .
- Event recorder: Theo dõi ECG vài tuần, vài tháng,...
- Siêu âm tim : Phát hiện bệnh tim cấu trúc gây ra rung nhĩ.
- Xét nghiệm máu : Bệnh lý tuyến giáp hoặc các nguyên nhân khác gây ra rung nhĩ,...
- Nghiệm pháp gắng sức , X-quang ngực : Giúp BS giải thích các dấu hiệu và triệu chứng.